NHỮNG CHỮ CÁI BỊ KỲ THỊ
Tôi
post lại bài này một lần nữa với nỗi buồn vô hạn khi ngày một nhiều bạn post bài
vào FB hay những mạng xã hội công cộng bằng tiếng Việt mà không có dấu và post
một cách vô tội vạ những từ ngữ VN không nằm trong tự điển và sai chính tả rất
nhiều từ những người trẻ cho đến cả những người già. Tại sao? Không tự tin khi
gõ chữ Việt? Hoặc lâu quá không dùng nên quên mà không dám
gõ?
Soft
UniKey hoàn toàn miễn phí, xét lỗi chính tả với Lingoes cũng hoàn toàn miễn phí
vậy tại sao lại có không phải một mà rất nhiều bạn không muốn hay không dám
xài?
Buồn
thay!
NHỮNG
CHỮ CÁI BỊ KỲ THỊ
Bảng
chữ cái tiếng Việt theo mẫu tự Latin gồm 29 chữ đã được chính thức thừa nhận từ
lâu. Tuy nhiên, sự phát triển của tiếng Việt hiện hành trong thời đại công nghệ
thông tin đã làm bộc lộ một số vấn đề cần giải quyết để nó được hoàn thiện
hơn.
Bảy
chữ cái bị kỳ thị
Trong
bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành có bảy chữ đặc biệt, được tạo thành bằng cách
bổ sung các dấu hiệu (“thêm mũ, thêm râu”) vào năm chữ cái Latin gốc (A, D, E,
O, U) để làm thành những chữ cái mới cho riêng tiếng Việt (tạm gọi là các chữ
biến thể). Đó là: Ă và Â (biến thể của A), Đ (biến thể của D), Ê (biến thể của
E), Ô và Ơ (biến thể của O), Ư (biến thể của U).
Nếu
chỉ sử dụng để đánh vần (hay ghép vần), đọc, viết hay biên soạn từ điển thì
những chữ biến thể này dường như không có vấn đề gì phải bàn. Nhưng khi sử dụng
chúng trong những trường hợp khác lại có vấn đề phát sinh.
Khi
cần sắp xếp một hệ thống nào đó theo vần chữ cái, người ta chỉ dùng các chữ cái
Latin gốc mà không dùng đến các chữ biến thể đó. Chẳng hạn, khi dùng bảng chữ
cái để ghi ký hiệu các hàng ghế của hội trường, nhà hát, rạp chiếu bóng, sân vận
động hay tàu xe, người ta đều ghi theo thứ tự như sau: A, B, C, D, E, G (...) O,
P, Q (...), T, U, V, X, Y... Như vậy tức là các chữ biến thể (Ă, Â, Đ, Ê, Ô, Ơ,
Ư) đã hoàn toàn bị loại bỏ.
Khi
cần trình bày các luận điểm theo thứ tự vần chữ cái, người ta cũng thản nhiên bỏ
qua những chữ đó. Trong các môn học ở nhà trường, khi cần dùng bảng chữ cái để
trình bày các ký hiệu hay công thức, những chữ này không bao giờ được áp dụng.
Chẳng hạn ở môn hình học luôn có các tam giác A - B - C, nhưng chưa bao giờ có
tam giác A - Ă - Â!
Áp
dụng bảng chữ cái tiếng Việt vào công nghệ thông tin, người ta chỉ dùng font chữ
tiếng Việt với đủ các chữ biến thể khi phải viết các văn bản tiếng Việt, còn
trong những trường hợp khác thì sự kỳ thị đối với các chữ “thêm mũ, thêm râu” đó
đã trở nên gần như tuyệt đối. Khi dùng điện thoại di động để nhắn tin, người ta
cũng thường bỏ hết những chữ “thêm mũ, thêm râu” trong font tiếng Việt (trừ
trường hợp thật cần thiết mới dùng).
Như
vậy, trong học thuật cũng như trong cuộc sống hằng ngày, sự kỳ thị đối với các
chữ cái biến thể từ lâu đã trở nên hết sức phổ biến, đến mức người ta coi đó là
chuyện đương nhiên và bình thường. Nhưng nếu xét về tính khoa học của một ngôn
ngữ thì việc 7/29, tức gần 1/4 số chữ cái không được sử dụng trong các trường
hợp nêu trên lại cho thấy sự không bình thường của bảng chữ cái chính thức:
những chữ cái biến thể không được coi là bình đẳng với những chữ
khác.
Bốn
chữ cái được dùng lậu
Trong
khi bảy chữ có vị trí chính thức trong bảng chữ cái nói trên bị kỳ thị thì bốn
chữ “ngoài luồng”: F, J, W và Z không có tên trong bảng đó lại được sử dụng
thường xuyên và ngày càng được trọng dụng.
Từ
đầu thế kỷ 20 đến nay, cả bốn chữ cái này đã được dùng trong ngôn ngữ điện tín
để thay cho dấu giọng và thay cho những chữ “thêm mũ, thêm râu” nêu trên. Khi
ghi ký hiệu các hàng ghế người ta loại bỏ các chữ biến thể nhưng lại thêm vào
bốn chữ cái gốc Latin này. Cả bốn chữ đó nằm trong học vấn ở nhà trường từ lâu
với “lực F”, thang nhiệt độ F, các nguyên tố hóa học Flo, Fe, Wonfram, Zn, thời
đại cổ sinh học “kỷ Jura” hay định luật “Jun-Len xơ”, với các bài toán tìm ẩn số
x - y - z, các đơn vị đo công suất điện W hay kW hoặc đo sóng điện từ kHz, MHz
và tên gọi của hàng loạt hóa chất như bazơ, saccarozơ, glucozơ, benzen... Chúng
cũng chính thức hiện diện trong tên gọi tắt của các cơ quan, xí nghiệp của nước
ta: Fafilm, Fahasa, TFS, VFF, Z751, Z755, Z25...
Chúng
thường xuyên xuất hiện trong các văn bản liên quan đến quan hệ quốc tế qua những
tên gọi tắt của UNICEF, FAO, IMF, FIFA, AFC, WB, WTO, WHO... Trong đời thường
mọi người đã quá quen với tần số FM, máy fax, đèn flash, festival, quần jeans,
nhạc jazz, võ judo, thịt jambon, khu vực WC... Chữ Z được dân ta đặc biệt ưa
thích nên một số người đã thêm nó vào tên của mình (Dzoãn, Dzếnh, Dzũng...),
hoặc chêm vào từ thuần Việt (dzậy, dzũa, dzui dzẻ...) và thường nói câu “từ A
đến Z” thay cho câu “từ A đến Y”! Nếu kể cả những tên người, tên đất và tên các
sản phẩm của nước ngoài được viết đúng theo từ gốc trong các văn bản của nước ta
thì tần suất hiện diện của bốn chữ đó nhiều vô số kể.
Đặc
biệt là trong công nghệ thông tin, bốn chữ này đã trở thành những ký tự không
thể thiếu và bắt buộc phải dùng. Theo đó, mọi website đều phải gắn liền với chùm
ký tự “www” và phải viết đúng chuẩn quốc tế (chẳng hạn như website của Liên đoàn
Bóng đá Việt Nam: www.vff.org.vn); trong khi các phím shift, page down, F1, F2,
F3, F4... là những quy chuẩn quốc tế trên bàn phím của máy tính điện tử mà ai
dùng cũng phải biết.
Nói
chung, F, J, W và Z đã trở thành những chữ cái thông dụng và cần thiết trong xã
hội nước ta. Sự khiếm khuyết các chữ này trong bảng chữ cái tiếng Việt đã làm
việc sử dụng chúng không có cơ sở pháp lý, khiến chúng trở thành những chữ cái
được dùng lậu.
Giải
pháp chuẩn hóa
Sự
tồn tại của bảy chữ bị kỳ thị cùng bốn chữ được dùng lậu cho thấy bảng chữ cái
tiếng Việt hiện hành thiếu tính chính xác và nhất quán để có thể áp dụng đầy đủ
cho mọi trường hợp. Những chuẩn mực quốc tế trong thời đại văn minh thông tin đã
chứng tỏ sự kỳ thị và dùng lậu như vậy là xác đáng và cần thiết. Do đó vấn đề
chuẩn hóa bảng chữ cái tiếng Việt đã được đặt ra một cách cấp bách, để việc sử
dụng các chữ cái đó trở nên hoàn toàn thỏa đáng.
Giải
pháp khả thi trước mắt cho việc chuẩn hóa này chính là việc bổ sung bốn chữ F,
J, W, Z vào bảng chữ cái hiện hành. Sau đó sẽ từng bước xem xét về những tác
dụng mới của bốn chữ này cùng với vị trí và vai trò của bảy chữ cái biến thể đối
với vần quốc ngữ và bảng chữ cái. Đến nay, các nhà ngôn ngữ học vẫn không hiểu
vì sao khi sáng tạo ra chữ quốc ngữ, linh mục Alexandre de Rhodes đã loại bỏ bốn
chữ cái gốc Latin nêu trên để rồi phải dùng PH thay cho F, dùng GI thay cho J và
dùng D để ghi cái âm đáng lẽ thuộc về Z; rồi lại phải chế ra chữ Đ để ghi cái âm
vốn thuộc về D?
Dù
sao đi nữa, giải pháp chuẩn hóa bảng chữ cái như vậy cũng là một việc rất khó
khăn phức tạp, vì nó đụng đến nhiều vấn đề hệ trọng của vần quốc ngữ đã được
quen sử dụng từ hàng trăm năm nay. Vì vậy, giải pháp này cần được thảo luận kỹ
để xúc tiến một cách hết sức thận trọng.
LÊ
VINH QUỐC
Nguồn:
Những chữ cái bị kỳ thị
0 nhận xét