VÌ SAO LÝ THƯỜNG KIỆT TRỞ THÀNH HOẠN QUAN?...
Hồi
đó học lịch sử về Lý Thường Kiệt mình chỉ biết ông là một anh hùng dân tộc "phá
Tống, bình Chiêm", bài thơ "Nam quốc sơn hà" và chỉ nghe nói ông là "hoạn quan"
vậy thôi. Hôm nay đọc được bài viết này, biết thêm một số tư liệu lịch sử và
những phân tích bàn bạc về việc tại sao ông bị "hoạn". Xin share cùng quí bạn,
nhưng mình nghĩ chỉ nên đọc để biết thêm.
VÌ
SAO LÝ THƯỜNG KIỆT TRỞ THÀNH HOẠN QUAN?
Xưa
nhất phải kể đến Triệu Cao, một hoạn quan được giữ chức thừa tướng dưới thời nhà
Tần và đã làm sụp đổ cả triều đại này. Triệu Cao đã giả di chiếu của Tần Thuỷ
Hoàng, buộc con trưởng là Phù Tô phải tự sát để nhường ngôi cho con thứ là Hồ
Hợi lên làm vua, tức hoàng đế Tần Nhị Thế, rồi Triệu Cao cướp ngôi nhà Tần dẫn
đến việc nhà Tần rơi vào tay nhà Hán. Hay như dưới thời vua Hán Linh Đế có loạn
“Thập thường thị”, mười hoạn quan thao túng triều đình, làm tan rã nhà Hán và
quyền hành rơi vào tay Đổng Trác, mở đường cho Tam Quốc phân
tranh.
Trong
lịch sử nước ta, không biết hoạn quan có từ bao giờ nhưng một trong những hoạn
quan được sử sách ghi lại dưới thời nhà Lý là Lý Thường Kiệt, vị tướng tài giỏi
bậc nhất và là anh hùng kiệt xuất của dân tộc ta. Mặc dù có nhiều người phục cái
tài của Lý Thường Kiệt, ngưỡng mộ những công trạng mà ông đã lập được cho đất
nước, nhưng cũng có không ít nho gia đã khinh khi ông chỉ vì ông là một hoạn
quan. Để biết được Lý Thường Kiệt có đáng phải nhận thái độ khinh khi của các
nho gia dành cho ông hay không, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu xem nguyên nhân
nào ông trở thành hoạn quan.
Xét
về thân thế Lý Thường Kiệt
Lý
Thường Kiệt tên thật là Ngô Tuấn, sinh năm 1019 vào thời vua Lý Thái Tổ và mất
năm 1105 dưới thời vua Lý Nhân Tông. Khi còn trẻ ông rất đẹp trai và được phong
“Đệ nhất mỹ nam tử” thời bấy giờ. Ông có tên tự là Thường Kiệt, sau được vua ban
quốc tính đổi sang họ Lý nên có tên là Lý Thường Kiệt. Ông là con của Sùng Tiết
tướng quân Ngô An Ngữ, và bà Hàn Diệu Chi. Ngô An Ngữ là tướng của Khai Quốc
vương Lý Long Bồ, người con trai thứ hai của vua Lý Thái Tổ.
Ngô
An Ngữ có công với triều Lý và tuẫn quốc, chẳng bao lâu sau thì vợ ông, bà Hàn
Diệu Chi cũng qua đời. Do cha mẹ mất sớm nên hai đứa con còn nhỏ của họ là
Thường Kiệt và Thường Hiến được Lý Long Bồ nhận làm con nuôi. Đến đời vua Lý
Thánh Tông, ông được vua nhận làm thiên tử nghĩa nam, tức con nuôi của vua.
Ngoài ra, Lý Thường Kiệt còn là cháu gọi bà Ngô Thuần Trúc, bằng cô. Ngô Thuần
Trúc là phu nhân của tướng Tạ Đức Sơn, người giữ chức Điện tiền Chỉ huy sứ,
thống lĩnh ngự lâm quân của triều đình. Ngoài ra, Lý Thường Kiệt còn có quan hệ
họ hàng với bà Ngô Cẩm Thi, vợ của tướng Tôn Đản.
Trong
đời, ông đã từng giữ qua nhiều chức vụ quan trọng. Trước tiên là chức Thái tử
Mật thư tỉnh sự, giúp thái tử Lý Nhật Tôn ở Đông cung, tức vua Lý Thánh Tông sau
này. Sau khi bị hoạn, ông được cho giữ chức Hoàng môn chi hậu , rồi được thăng
đến chức Nội thị sảnh đô tri, sau được cho giữ chức Đình Uý sứ, trông coi các
việc về hình án trong triều. Năm 1042, vua Lý Thái Tông giao cho ông cùng với
một số đại thần soạn thảo bộ Luật “Hình thư”, bộ luật này được xem là bộ luật
hình sự đầu tiên của nước ta.
Đến
đời vua Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt được thăng đến chức Thái bảo, sau đó do
lập được nhiều chiến công trong trận đánh với Chiêm Thành nên ông được phong
chức phụ quốc Thái phó, tước Khai Quốc công. Đến tháng 8 năm 1075 ông được phong
chức Đôn quốc Thái uý. Đến khi mất, ông được vua Lý Nhân Tông truy phong chức
Kiểm hiệu Thái uý Bình chương sự và ban tước Việt Quốc công.
Lập
nhiều đại công hiển hách
Các
đại công Lý Thường Kiệt đã lập phải kể đến trận đánh Tống kinh thiên động địa
cuối năm 1075. Trận đánh này do Lý Thường Kiệt tổng chỉ huy quân Đại Việt vượt
biên giới phía bắc đánh các châu phía nam của nhà Tống như: Khâm, Liêm và Ung
châu nhằm phá huỷ đường xá, cầu cống, các kho lương thực và vũ khí mà Tống tích
trữ để chuẩn bị đánh Đại Việt.
Đây
là kế hoạch của Linh Nhân hoàng thái hậu Ỷ Lan khi nhận được tin từ Khu Mật Viện
Đại Việt rằng Tống đang luyện binh và tích trữ lương thực chuẩn bị đưa quân tấn
công nước ta theo kế hoạch nam tiến của Tể tướng nhà Tống là Vương An Thạch. Kế
hoạch đánh Tống của bà Ỷ Lan đã được Lý Thường Kiệt và các tướng lúc bấy giờ ủng
hộ. Theo kế hoạch này, Đại Việt phòng thủ bằng cách chủ động tấn công trước,
đánh phủ đầu quân Tống, phá kho lương thực, vũ khí, đường xá và cầu cống nhằm
ngăn cản cuộc xâm lăng của nhà Tống. Sau khi hoàn thành kế hoạch, hạ thành cuối
cùng là thành Ung Châu, quân Đại Việt rút về nước.
Dân
gian có câu ca dao ca tụng việc Lý Thường Kiệt đưa quân qua biên giới phía bắc
đánh Tống trong trận này như sau:
Nực
cười châu chấu đá xe
Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng
Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng
Hoặc
là:
Đem
chuông đi đánh xứ người
Chẳng kêu cũng đánh vài hồi lấy danh
Chẳng kêu cũng đánh vài hồi lấy danh
Chiến
thắng này đã làm cho nhà Tống mất mặt đến mức vua Tống Thần Tông đã phải nhượng
bộ nước Hạ ở phía tây và chấp nhận cắt đất dâng cho nước Liêu ở phía bắc để rảnh
tay đối phó với Đại Việt. Năm 1076, nhà Tống đã huy động toàn bộ lực lượng binh
lính ở phía bắc và phía tây tham gia vào cuộc chiến đánh trả thù, quyết tâm
chiếm Đại Việt. Trong trận này, hai tướng Quách Quỳ và Triệu Tiết cùng 12 tướng
đã từng đánh trận ở Tây Hạ đem khoảng 30 vạn quân tấn công Đại Việt. Nhưng với
sự chỉ huy tài giỏi của Lý Thường Kiệt, quân Tống đã bị đại bại ở trận chiến
trên sông Như Nguyệt và buộc phải rút quân. Trận thắng Tống lần này đã làm đảo
lộn cả giang san nhà Tống và đã phá vỡ kế hoạch của Vương An
Thạch.
Các
lần cầm quân đánh quân Chiêm phải kể đến trận chiến năm 1069, Lý Thường Kiệt bắt
được vua Chiêm là Chế Củ và các tôn thất, sau đó Chế Củ xin dâng 3 châu Bố
Chính, Địa Lý và Ma Linh để chuộc mạng. Tháng 10 năm 1103, mặc dù tuổi cao nhưng
Lý Thường Kiệt đã xin vua cho đi đánh Lý Giác ở Diễn Châu nổi lên làm phản. Năm
1104, ở tuổi 85 nhưng Lý Thường Kiệt vẫn còn cầm quân trực tiếp đi đánh Chiêm
Thành khi vua Chiêm là Chế Ma Na đem quân đánh lấy lại ba châu do Chế Củ đã dâng
cho Đại Việt để chuộc tội trước đây. Lý Thường Kiệt đã đánh thắng trận này, buộc
Chế Ma Na phải nộp lại vùng đất đó cho Đại Việt.
Vì
sao Lý Thường Kiệt trở thành hoạn quan?
Nhiều
câu hỏi đã được đặt ra rằng tại sao vị anh hùng của dân tộc ta là một hoạn quan?
Hoạn quan thường không được trọng dụng trong những việc quốc sự và đánh giặc
nhưng Lý Thường Kiệt được cầm quân đánh giặc và lập được nhiều đại công làm cho
quân Tống phía Bắc, quân Chiêm phía Nam phải khiếp sợ. Điều này chứng tỏ Lý
Thường Kiệt không giống như những hoạn quan khác. Vậy việc tịnh thân của Lý
Thường Kiệt có một lý do đặc biệt nào khác chăng? Hay ông là một hoạn quan bẩm
sinh? Hoặc việc tịnh thân của ông là một tai nạn hay chính ông là một nạn
nhân?
1.
Lý Thường Kiệt là một hoạn quan bẩm sinh?
Lý
Thường Kiệt chắn chắn không phải là một hoạn quan bẩm sinh vì trước khi trở
thành hoạn quan ông đã có một mối tình với Dương Hồng Hạc, tức hoàng hậu Thượng
Dương sau này. Dương Hồng Hạc là cháu của hoàng hậu Thiên Cảm, vợ vua Lý Thái
Tông. nên hoàng hậu Thiên Cảm đã sắp xếp cho cháu bà là Hồng Hạc trở thành vợ
của thái tử Lý Nhật Tôn, tức vua Lý Thánh Tông sau này.
Việc
Dương Hồng Hạc trở thành vợ của thái tử Nhật Tôn có thể gây nguy hiểm cho Lý
Thường Kiệt nếu triều đình khám phá ra mối tình của ông với Hồng Hạc trước đây.
Vì vậy, cha nuôi của ông là Lý Long Bồ đã sắp xếp cho Lý Thường Kiệt đính hôn
với Tạ Thuần Khanh, là con gái của quan Điện suý Tạ Đức Sơn và bà Ngô Thuần
Trúc. Trong khi chờ đợi chính thức nên vợ nên chồng với Tạ Thuần Khanh thì Lý
Thường Kiệt trở thành hoạn quan, cho nên ông đã từ hôn với người vợ chưa
cưới.
2.
Lý Thường Kiệt tự hoạn vì tiền?
Có
nhiều lý do được đưa ra để giải thích việc Lý Thường Kiệt trở thành hoạn quan.
Có người tin rằng vì vua Lý Thái Tông thấy Lý Thường Kiệt “mặt mũi đẹp đẽ” nên
cho 3 vạn quan tiền bảo tự hoạn để vào cung hầu hạ. Lập luận này không mấy có lý
bởi vì, thứ nhất số tiền 3 vạn quan là một số tiền rất lớn thời bấy giờ. Sử sách
còn ghi lại rằng năm 1254 vua Trần Thái Tông cho Phạm Ứng Mộng 400 quan bảo “tự
hoạn” để vào cung hầu hạ vua. Không thể nào trước đó 213 năm, số tiền vua cho Lý
Thường Kiệt lại lớn gấp 75 lần.
Thứ
hai, Lý Thường Kiệt không thể vì túng tiền mà phải tự nguyện tĩnh thân để có 3
vạn quan. Mặc dù cha mẹ mất sớm nhưng cha ông, Ngô An Ngữ là một công thần của
nhà Lý nên anh em Lý Thường Kiệt thừa hưởng gia sản của người cha để lại đủ để
anh em ông sống một cuộc sống không thua gì con cái của các quan lại trong
triều, cho nên Lý Thường Kiệt không thể nào “túng thiếu” đến mức phải tịnh thân
vì lý do tiền bạc.
3.
Tự nguyện tịnh thân để được vào cung?
Với
cương vị là con của một công thần đã vì nước hy sinh và gia đình nối đời làm
quan, Lý Thường Kiệt đã có sẵn cánh cửa mở rộng để “tập ấm làm quan” mà không
cần phải qua thi cử dành cho những dân thường khác. Hơn nữa, ông còn là người
tài trí thông minh, văn võ song toàn thì việc vào cung không phải là chuyện khó;
chỉ cần tham dự một kỳ thi ứng thí võ công do triều đình mở ra, ông có thể đậu
và trở thành một võ quan một cách dễ dàng.
4.
Lý Thường Kiệt bị vua trách phạt?
Có
một thuyết nữa cho rằng: “vua Lý Thái Tông đánh Chiêm Thành bắt được Nùng Trí
Cao lại tha về, Lý Thường Kiệt can ngăn, vua cho là thất lễ bắt phải tĩnh thân,
sau đó triệu cho vào hầu cận”. Thứ nhất, Nùng Trí Cao cai quản các khê động ở
phía bắc giáp với Tống, trong khi Chiêm Thành ở phía nam, nên vua Lý Thái Tông
đánh Chiêm Thành không thể bắt được Nùng Trí Cao. Thứ hai, nếu cho rằng vua Lý
Thái Tông vì lòng nhân từ mà tha cho một người “nổi lên làm giặc” như Nùng Trí
Cao thì không lý nào vua lại trở nên “hung ác” đến độ “đem thiến” một người thân
cận chỉ vì người đó can ngăn chuyện này.
5.
Lý Thường Kiệt bị bức hại?
Có
thuyết cho rằng Lý Thường Kiệt bị hại bằng cách cho đánh thuốc mê rồi hoạn ông
trong đợt tuyển hoạn quan dưới thời vua Lý Thái Tông và trong thời gian dài Lý
Thường Kiệt không biết ai đứng đằng sau chuyện này. Lập luận này có lý hơn khi
nhìn lại những chuyện “thâm cung bí sử” trong cung đình lúc bấy
giờ.
Nếu
không biết chuyện tình cảm trước đây của Lý Thường Kiệt với Dương Hồng Hạc cũng
như chuyện lộng quyền của gia đình họ Dương đối với triều Lý dẫn đến việc họ
Dương làm gian tế cho Tống như thế nào, có thể chúng ta nghĩ rằng Lý Thường Kiệt
trở thành hoạn quan là do những nguyên nhân kể trên. Để hiểu thêm chuyện cung
đình lúc bấy giờ, xin nhắc vài sự việc để chúng ta có thêm dữ kiện liên quan đến
câu chuyện của Lý Thường Kiệt.
Dương
Hồng Hạc là hoàng hậu, vợ vua Lý Thánh Tông, sau này trở thành thái hậu Thượng
Dương. Thái hậu Thượng Dương là người mà chính sử ghi rằng đã bị hoàng thái hậu
Linh Nhân, tức bà Ỷ Lan chôn sống với 72 cung nữ sau khi vua Lý Thánh Tông băng
hà. Mặc dù chính sử ghi nguyên nhân của câu chuyện này không rõ ràng lắm nhưng
các nguồn tư liệu khác có nói việc chôn sống này là do thái hậu Thượng Dương
cùng với 72 cung nữ là “tay chân” của bà và những người thân thuộc họ Dương đã
làm gian tế cho Tống, được nhà Tống sắp xếp cướp ngôi khi vua Lý Thánh Tông
mất.
Dương
Hồng Hạc là con của Dương Đức Uy và là cháu gọi hoàng hậu Thiên Cảm, vợ vua Lý
Thái Tông, bằng cô. Khi hoàng hậu Thiên Cảm được vua Lý Thái Tông sủng ái, cha
của bà là Dương Đức Thành được phong làm Tể Tướng. Từ đó thế lực họ Dương được
hình thành như: Dương Đạo Gia, Dương Đức Uy, Dương Đức Thao, Dương Đức Huy… ba
thế hệ lần lượt nắm giữ các chức vụ quan trọng trong triều.
Để
tạo thêm thế lực cho họ Dương, hoàng hậu Thiên Cảm đã đem đứa cháu gọi bằng cô
ruột là Dương Hồng Hạc gả cho con chồng là thái tử Lý Nhật Tôn để khi Nhật Tôn
lên làm vua thì Hồng Hạc trở thành hoàng hậu. Trước khi lấy Hồng Hạc, thái tử
Nhật Tôn đã được cảnh giác về việc họ Dương lộng quyền có thể dẫn đến cướp ngôi
vua như Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, vì vậy Nhật Tôn không muốn gần gũi với
Hồng Hạc vì lo sợ nếu có con sẽ trúng kế họ Dương.
Mặc
dù làm vợ thái tử nhưng Dương Hồng Hạc chẳng hề được chồng đoái hoài tới nên
Hồng Hạc nhớ tới người tình cũ – Lý Thường Kiệt, người đang giữ chức Thái tử Mật
thư tỉnh sự, giúp thái tử Nhật Tôn ở Đông cung. Mặc dù giữa Thường Kiệt với Nhật
Tôn bên ngoài là quan hệ chúa – tôi nhưng bên trong hai người rất gần gũi và
thân với nhau vì hai người đều là con nuôi của Lý Long Bồ, cùng chơi đùa với
nhau từ thời thơ ấu. Vì vậy, Dương Hồng Hạc đã nhờ Thường Kiệt giúp mình nói với
Nhật Tôn để được “ban hồng ân”.
Có
lẽ vì lo cho hậu vận nhà Lý nên Thường Kiệt đã không nhận lời giúp đỡ Hồng Hạc.
Phải chăng vì lý do đó mà ông đã bị Hồng Hạc và hoàng hậu Thiên Cảm ra tay bức
hại trong một đợt tịnh thân tuyển hoạn quan vào cung? Hậu quả của việc này cũng
giải thích phần nào lý do tại sao Lý Thường Kiệt đã đứng về phe của bà Ỷ Lan chứ
không phải là phe của hoàng hậu Thượng Dương trong việc tranh giành quyền “nhiếp
chính” sau khi vua Lý Thánh Tông mất.
Riêng
về cuộc đời của Dương Hồng Hạc, sau khi thái tử Nhật Tôn lên ngôi tức vua Lý
Thánh Tông, hoàng hậu Thiên Cảm lúc đó trở thành thái hậu và đã ép vua Lý Thánh
Tông phong Hồng Hạc làm hoàng hậu, tức hoàng hậu Thượng Dương. Nhưng từ khi được
tiến cung đến khi trở thành hoàng hậu cho tới khi vua Lý Thánh Tông mất, Dương
Hồng Hạc hay hoàng hậu Thượng Dương sau này chưa một lần được vua “ban ân sủng”.
Bà đã sống âm thầm lặng lẽ trong cung với mối hận nhà Lý không nguôi nên đã cùng
với bác là Tể tướng Dương Đạo Gia và tay chân họ Dương âm mưu cướp ngôi nhà Lý
khi vua Lý Thánh Tông mất. Vì vậy mới có câu chuyện thái hậu Thượng Dương cùng
72 cung nữ bị giam và bị chôn sống theo vua Lý Thánh Tông mà chúng ta đã biết
qua sử sách.
Bài
viết này chỉ muốn phân giải phần nào nguyên nhân trở thành hoạn quan của Lý
Thường Kiệt, người mà cho dù đã lập được nhiều đại công nhưng vẫn bị các nho gia
khinh khi. Đứng trên phương diện nhìn về lịch sử đã qua, cho dù Lý Thường Kiệt
là hoạn quan với bất kỳ lý do nào khác, lòng tôn kính của hậu thế chúng ta đối
với ông phải dựa trên những công trạng ông đã đóng góp cho đất nước, trong đó
chiến công hiển hách nhất là đánh giặc Tống để giữ vững nền độc lập cho nước Đại
Việt. Công trạng đối với đất nước mới là điểm chính yếu xác định ai là anh hùng
dân tộc, là người mà muôn dân phải luôn tôn kính và ghi nhớ.
Từ
blog của nhà văn Thái Bá Tân (đăng trong mạng Nguyễn Hữu Kính)
0 nhận xét